Đây là phiên bản lỗi thời đã được xuất bản vào 28-04-2022. Đọc phiên bản mới nhất ở đây .

SO SÁNH HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH TRỨNG CÁ ĐỎ BẰNG ISOTRETINOIN LIỀU THẤP VÀ TRUNG BÌNH

Các tác giả

  • Nguyễn Thị Linh Lan Trường Đại học Y Hà Nội
  • Đỗ Thị Thu Hiền Bệnh viện Da liễu Trung ương

DOI:

https://doi.org/10.56320/tcdlhvn.v35i.12

Từ khóa:

Trứng cá đỏ, Isotretinoin

Tóm tắt

Mục tiêu: So sánh kết quả điều trị bệnh trứng cá đỏ thể sẩn mủ bằng isotretinoin liều thấp (0,15-0,25 mg/kg/ngày) và liều trung bình (0,4-0,5mg/kg/ngày).

Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên: 54 bệnh nhân trứng cá đỏ thể sẩn mủ được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm 1 sử dụng liều thấp và nhóm 2 sử dụng liều trung bình trong thời gian 8 tuần.

Kết quả: Sau 8 tuần điều trị, cả hai nhóm đều cải thiện tổn thương ban đỏ và sẩn mủ rõ ràng. Tổn thương ban đỏ theo thang điểm CEA cải thiện tương đương giữa hai liều isotretinoin (52,7% so với 45,4% ; p>0,05). Tỷ lệ phần trăm giảm tổn thương sẩn mủ trên các bệnh nhân có IGA mức độ nhẹ và trung bình không khác biệt giữa hai nhóm điều trị. Trong khi tỷ lệ  phần trăm  giảm tổn thương sẩn mủ trên các bệnh nhân có IGA mức độ nặng ở nhóm 2 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm 1 tại thời điểm 8 tuần (84,7% so với 76,8%, p<0,05). Tác dụng phụ chỉ gặp trên da và liên quan chủ yếu tới tình trạng khô và kích ứng; trong đó nhóm 2 có xu hướng gặp các vấn đề này với tần suất và mức độ nặng hơn nhóm 1.

Kết luận: Isotretinoin an toàn và hiệu quả trong điều trị trứng cá đỏ thể sẩn mủ. Hiệu quả điều trị không khác biệt giữa hai liều điều trị trên các bệnh nhân có IGA mức độ nhẹ và trung bình. Tuy nhiên, mức cải thiện tổn thương sẩn mủ trên các bệnh nhân có IGA mức độ nặng ở nhóm sử dụng isotretinoin liều trung bình cao hơn có ý nghĩa so với nhóm liều thấp ở thời điểm 8 tuần.

 

Tải xuống

Đã Xuất bản

28-04-2022

Các phiên bản

Cách trích dẫn

Nguyễn Thị Linh Lan, & Đỗ Thị Thu Hiền. (2022). SO SÁNH HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH TRỨNG CÁ ĐỎ BẰNG ISOTRETINOIN LIỀU THẤP VÀ TRUNG BÌNH. Tạp Chí Da liễu học Việt Nam, (35), 20–27. https://doi.org/10.56320/tcdlhvn.v35i.12

Số

Chuyên mục

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC